Bs. Lê Thị Lan Ly – Bệnh viện Đa khoa Phương Chi
Tổng quan
Lạc tuyến trong cơ tử cung (adenomyosis) là một rối loạn lành tính của tử cung, gây ra đau bụng kinh, rong kinh và vô sinh. Thường đi kèm với u xơ tử cung và lạc nội mạc tử cung, adenomyosis có chung nhiều cơ chế bệnh sinh với các tình trạng này. Vì bệnh nhân lạc nội mạc tử cung có nhiều bệnh lý đi kèm mang tính viêm hệ thống/ tự miễn, trong khi chưa có dữ liệu về bệnh nhân chỉ mắc adenomyosis, nghiên cứu này được tiến hành nhằm khảo sát phổ các bệnh lý đi kèm ở nhóm bệnh nhân chỉ mắc adenomyosis.
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu quan sát tiến cứu so sánh tình trạng bệnh lý hệ thống đi kèm giữa 2 nhóm bệnh nhân:
-
Nhóm 1: bệnh nhân chỉ mắc adenomyosis (n = 342)
-
Nhóm 2: bệnh nhân mắc đồng thời adenomyosis và lạc nội mạc tử cung (n = 347).
Đối tượng nghiên cứu là các bệnh nhân trong độ tuổi 20–50, loại trừ các trường hợp có bệnh ác tính. Chẩn đoán adenomyosis hoặc lạc nội mạc tử cung được xác định bằng hình ảnh học (siêu âm theo MUSA hoặc MRI) hoặc phẫu thuật.
Các bệnh lý hệ thống đi kèm được phân loại thành 2 nhóm chính:
- Bệnh lý liên quan đến tự miễn: bệnh Celiac, viêm loét đại tràng, bệnh Crohn, viêm mạch máu, viêm khớp và bệnh mô liên kết, bệnh Hashimoto, hen phế quản, dị ứng da hoặc nhãn khoa.
- Rối loạn liên quan đến stress hoặc đau: hội chứng ruột kích thích, lo âu, trầm cảm, cơn hoảng loạn, rối loạn ăn uống, rối loạn stress sau sang chấn, đau nửa đầu.
Ngoài ra, thông tin về bệnh lý tim mạch (tăng huyết áp, bệnh tim thiếu máu cục bộ, bệnh tim cấu trúc, viêm và rối loạn nhịp), bệnh thần kinh (động kinh, đa xơ cứng, viêm thần kinh thị giác hậu nhãn cầu, đột quỵ) và bệnh chuyển hóa (rối loạn lipid máu, hội chứng chuyển hóa, đái tháo đường type II, béo phì) cũng được thu thập. Ngoài ra, quần thể nghiên cứu được phân nhóm theo tuổi: ≤ 35 tuổi (n = 372/689; 54%) và trên 35 tuổi (n = 317/689; 46%).
Kết quả:
Xét về tỷ lệ hiện mắc chung của các rối loạn liên quan đến tự miễn và các bệnh lý liên quan đến stress hoặc đau, những tình trạng này gặp ít hơn có ý nghĩa ở nhóm 1 (bệnh nhân chỉ mắc adenomyosis) so với nhóm 2 (bệnh nhân đồng thời mắc adenomyosis và lạc nội mạc tử cung): 44,7% (153/342) so với 55,0% (191/347), p = 0,007.
Phân tích đa biến có hiệu chỉnh theo tuổi, BMI và số lần sinh cho thấy sự hiện diện đồng thời của lạc nội mạc tử cung có liên quan độc lập với tình trạng bệnh đi kèm ở bệnh nhân adenomyosis (OR = 1,49; KTC 95%: 1,10–2,01; p = 0,01).
Xét theo kiểu hình lạc nội mạc tử cung, không có sự khác biệt có ý nghĩa về bệnh đi kèm liên quan đến tự miễn; tuy nhiên, các rối loạn liên quan đến stress hoặc đau xuất hiện nhiều hơn đáng kể ở bệnh nhân adenomyosis có kèm lạc nội mạc tử cung xâm nhập sâu (p < 0,001) hoặc kiểu hình hỗn hợp (p = 0,001).
Bệnh nhân adenomyosis có tỷ lệ bệnh tự miễn thấp hơn đáng kể (14%, 48/342) so với bệnh nhân đồng thời có adenomyosis và lạc nội mạc tử cung (24%, 83/347) (p < 0,001). Bệnh Hashimoto gặp nhiều hơn có ý nghĩa ở nhóm bệnh nhân đồng mắc lạc nội mạc tử cung so với nhóm chỉ mắc adenomyosis (p = 0,03).
Xét theo tuổi, nhóm bệnh nhân chỉ mắc adenomyosis và trên 35 tuổi có tỷ lệ mắc bệnh tự miễn thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm đồng thời mắc adenomyosis và lạc nội mạc tử cung (6% so với 13%, p = 0,002)
Tỷ lệ mắc các rối loạn liên quan đến stress và đau cũng thấp hơn đáng kể ở bệnh nhân chỉ mắc adenomyosis (30%, 104/342) so với nhóm đồng thời mắc cả hai tình trạng (46%, 161/347) (p < 0,001) (Bảng 1). Đau đầu gặp nhiều hơn có ý nghĩa ở bệnh nhân đồng thời mắc adenomyosis và lạc nội mạc tử cung so với nhóm chỉ mắc adenomyosis (p < 0,001).
Phân tích dưới nhóm theo tuổi cho thấy: bệnh nhân chỉ mắc adenomyosis và < 35 tuổi có tỷ lệ mắc các rối loạn liên quan đến stress và đau thấp hơn có ý nghĩa so với bệnh nhân đồng thời mắc adenomyosis và lạc nội mạc tử cung (14% so với 26%, p < 0,001).
Đối với các bệnh lý tim mạch, thần kinh và chuyển hóa, không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm.
Kết luận:
Bệnh nhân adenomyosis có tỷ lệ bệnh lý hệ thống đi kèm thấp hơn so với những người đồng mắc adenomyosis và lạc nội mạc tử cung. Cần có thêm nhiều nghiên cứu để hiểu rõ hơn nền tảng lâm sàng và di truyền của các bệnh lý toàn thân đi kèm ở bệnh nhân mắc lạc NMTC và/hoặc adenomyosis nhằm cá nhân hóa chiến lược điều trị, tiếp cận đa chuyên khoa đối với nhóm bệnh nhân này.











Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP. Hồ Chí Minh (HOSREM) sẽ ...
Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025
Ngày 9 - 10 . 8 . 2025, Vinpearl Landmark 81 (Số 720A Điện BIên Phủ, ...

Y học sinh sản được phát ngày ngày 21 . 9 . 2025 và gởi đến ...

Cẩm nang Hội chứng buồng trứng đa nang được phát hành online ...

Mời quý đồng nghiệp đón đọc bản Online của Y học sinh sản ...